Tên khác: Sắn dây, Bạch cát, khau cát (Tày), bẳn mắm kéo (Thái).
Tên khoa học: Pueraria thomsonii Benth.
Họ: Đậu (Fabaceae).
Bộ phận dùng: Radix Puerariae thomsonii (Rễ củ đã phơi hay sấy khô)
MÔ TẢ CÂY
Cây Sắn dây
Dây leo. Rễ củ mập, nạc, có nhiều bột. Thân cành hơi có lông. Lá kép, mọc so le, gồm 3 lá chét, lá chét hình trứng rộng, đầu nhọn, mép nguyên hoặc chia thùy, dài 7 - 15 cm, rộng 5 - 12 cm, lá chét giữa lớn hơn, có lông áp sát ở cả hai mặt, gân gốc 3; cuống lá kép dài 1,3 - 1,6 cm; lá kèm hình mác nhọn.
Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm dài 15 - 30 cm; hoa thơm, màu xanh lơ hoặc xanh tím; lá bắc có lông; đài hình chuông, có lông áp sát màu vàng, chia 4 răng, có 1 răng rộng hơn; tràng có cánh ngắn, cánh cờ hình mắt chim rộng 1,8 cm có tai ngắn; nhị một bó; bầu dài gấp hai lần vòi nhuỵ, có lông mịn.
Quả đậu, dẹt, dài khoảng 8 cm, thắt lại giữa các hạt, có nhiều lông màu vàng nâu.
Mùa hoa: tháng 9 - 10; mùa quả: tháng 11 - 12.
Tránh nhầm với cây sắn dây mọc hoang ở đồi núi, không được khai thác và sử dụng vì rễ của cây nhỏ, gầy, ít bột, nhiều xơ, có vị hơi đắng.
PHÂN BỐ, SINH THÁI
Pueraria DC. là chi nhỏ, gồm các loài là dây leo quấn, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á (16 loài); Việt Nam có 5 loài. Một số loài có rễ củ, nhiều tinh bột được dùng làm thực phẩm hay làm thuốc; vài loài khác có tác dụng phủ đất, lấy lá làm thức ăn cho gia súc. Cá biệt có loài P. tuberosa (Roxb. ex Willd.) DC mọc ở Nepan, Pakistan và Ấn Độ, rễ củ có độc, thường dùng để duốc cá.
Sắn dây vốn có nguồn gốc từ hoang dại, thường mọc ở ven rừng kín thường xanh ẩm hoặc theo hành lang ven suối; ở độ cao đến 2000 m. Cây có vùng phân bố rộng từ Đông Ân Độ đến Mianma, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia... sắn dây còn được nhập sang vùng Nam Hoa Kỳ và một vài nước khác ở Nam châu Mỹ. Hiện nay nó đã trở thành cây trổng phổ biến ở Trung Quốc (Quảng Tây, Vân Nam, Hải Nam, Đài Loan), Việt Nam, Lào và hầu hết các nước khác ở vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên qua quá trình chọn giống và nhân trồng ở nhiều nơi, người ta đã tạo ra nhiều giống sắn dây khác nhau.
Ở Việt Nam, sắn dây cũng được trồng từ lâu đời từ miền núi đến đồng bằng. Cây ưa sáng, có biên độ sinh thái khá rộng, có thể sinh trưởng phát triển tốt trên nhiều loại đất và ở các vùng tiểu khí hậu khác nhau. Nhiệt độ trung bình từ 20°C (ở Trung Quốc) đến 26°C (vùng nhiệt đới). Cây sinh trưởng phát triển mạnh trong mùa mưa ẩm (xuân - hè và hè - thu), chịu được hạn do có hệ thống rễ củ phát triển. Cây trồng ở các tỉnh phía bắc có hiện tượng rụng lá và tàn lụi một phần vào mùa đông. Cây trồng thường có hoa quả vào năm thứ 2. Cá biệt ở những nơi đất tốt và có giá thể leo đầy đủ, cây có thể ra hoa quả ngay trong năm đầu tiên, sắn dây có khả năng tái sinh dinh dưỡng khỏe, trước khi vào thời kỳ lụi đông, người ta cắt bỏ phần thân già để sang năm cây mọc chồi mới. Từng đoạn thân, cành bánh tẻ đem vùi xuống đất cũng có khả năng nảy mầm.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC:
Rễ sắn dây chứa các thành phần sau:
Một số công thức đại diện:
TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
1. Tác dụng đối với tim mạch: Thử nghiệm trên chó, flavon toàn phần của sắn dây tiêm thẳng vào động mạch vành với liều 1 mg/kg dẫn đến lưu lượng mạch vành tăng trung bình 24 ± 5% và sức kháng mạch vành giảm 19 ± 3%, nếu tăng liều 2 mg/kg thì lưu lượng mạch vành tăng 53 ± 6% và sức kháng giảm 34 ± 7%; tác dụng trên kéo dài trong vòng 3 phút .Còn bằng đường tiêm tĩnh mạch phải dùng liều flavon toàn phần cao hơn: 20 mg, 30 mg/kg thì lưu lượng mạch vành tăng 15 ± 4%, 44,9% và sức kháng mạch vành giảm 13,4%, 28 ± 6%.
Hoạt chất puerarin trên chó tiêm tĩnh mạch với liều 20 mg/kg làm tăng lưu lượng mạch vành 36 ± 7% và sức kháng giảm 25 ± 3%, tác dụng này kéo dài trong vòng 5 phút. So sánh với papaverin dùng bằng đường tiêm tĩnh mạch với liều 2 mg/kg, tác dụng gây giãn mạch vành của thuốc tương đương với flavon toàn phần dùng liều 30 mg/kg và với puerarin dùng liều 20mg/kg, nhưng có khác nhau là papaverin làm tăng lượng tiêu thụ oxygen còn sắn dây lại làm giảm lượng tiêu thụ oxygen của cơ tim.
Trên chó gây thiếu máu cơ tim thực nghiệm bằng pituitrin dẫn đến lưu lượng mạch vành giảm, sức kháng mạch vành tăng, sau khi dùng pituitrin 4 phút, dùng flavon toàn phần của sắn dây với liều 20 - 30 mg/kg tiêm tĩnh mạch thì lưu lượng mạch vành nhanh chóng hồi phục trở lại bình thường, sức kháng mạch vành giảm nhưng huyết áp vẫn cao. Điều đó chứng tỏ flavon toàn phần đối kháng được tác dụng gây co thắt mạch vành của pituitrin, nhưng không đối kháng được tác dụng gây tăng huyết áp của chất này.
Trên chó đã dùng reserpin trước để làm tiêu kiệt hết lượng catecholamin trong mô tim, dạng flavon toàn phần với liều 30 mg/kg và puerarin với liều 20 mg/kg có tác dụng làm tăng lưu lượng mạch vành và giảm sức kháng mạch vành. Những kết quả này giống với kết quả thí nghiệm trên chó không dùng reserpin. Điều này chứng tỏ hiện tượng làm giãn mạch vành của sắn dây không liên quan đến catecholamin mà là do tác dụng giãn cơ trực tiếp.
Puerarin trên chó thí nghiệm tiêm tĩnh mạch với liều 20 mg/kg có tác dụng hạn chế phạm vi nhồi máu cơ tim thực nghiệm. Trên lâm sàng ở những bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp tính, puerarin trên tĩnh mạch với liều 4-5 mg/kg sau đó 4 giờ tiếp tục tiêm truyền tĩnh mạch puerarin với liều 4-5 mg/kg, kết quả các chỉ số tiêu hao oxygen của cơ tim, men phosphocreatine - kinase, SST tăng cao, £Q bệnh ly và phạm vi nhồi máu cơ tim đều giảm so với lô đối chứng. Những kết quả trên là cơ sở khoa học cho việc giải thích tác dụng điều trị bệnh mạch vành của sắn dây trên lâm sàng.
a) Tác dụng hạ huyết áp. Flavon toàn phần của sắn dây, tiêm tĩnh mạch với liều 5 - 30 mg trên chó, mèo gây mê và không gây mê đều có tác dụng hạ huyết áp. Trên chó gây cao huyết áp do thận hoặc cao huyết áp nguyên phát, cao cồn sắn dây cho thẳng vào dạ dày với liều 2 g/kg có tác dụng hạ huyết áp trên một số chó. Flavon toàn phần trên chó gây mê với liều lmg/kg tiêm vào động mạch cảnh có tác dụng làm giảm trở lực tuần hoàn não, máu lưu thông càng nhanh; với liều 1 - 4 mg/kg trên động mạch đùi trên chó gầy mê có tác dụng làm giãn mạch ngoại vi.
Cao sắn dây với liều 750 mg/kg tiêm tĩnh mạch có khả năng đối kháng với tác dụng kích thích tim của isoprenalin, ngoài ra còn làm giảm nhịp tim và gây hạ huyết áp. Trên mạc treo ruột chuột nhắt trắng nhỏ dung dịch puerarin 0,5% có tác dụng đối kháng với những hiện tượng do adrenalin gây nên như gây co bóp các vi động mạch, lưu lượng tuần hoàn giảm.
b) Tác dụng chống loạn nhịp tim. Puerarin, daidzein và dạng chiết cồn từ sắn dây, trên chuột cống trắng và chuột nhắt trắng với những mô hình gây loạn nhịp tim bằng aconitin, bari clorid, calci clorid cloroform và thắt động mạch vành trái trước đều có tác dụng đối kháng rõ rệt với loạn nhịp tim do các tác nhân trên gây nên. So sánh tác dụng của 3 dạng thuốc trên thấy rằng daidzein có tác dụng kháng loạn nhịp tim tương đối mạnh, đối với các loạn nhịp tim trên đều có tác dụng rõ rệt, dạng chiết cồn có tác dụng giống với daidzein; điều đó chóng tỏ daidzein là thành phần chủ yếu có tác dụng chống loạn nhịp tim. Còn puerarin với liều tương đương có tác dụng đối kháng rõ rệt với loạn nhịp do aconitin và bari clorid gây nên, giảm nhẹ mức độ loạn nhịp do thiếu máu cơ tim, còn tác dụng đối kháng với rung thất thì không bằng daidzein. Những kết quả trên chứng minh việc dùng sắn dây để phòng ngừa và điều trị rối loạn nhịp tim đặc biệt là trong trường hợp thiếu máu cơ tim là có cơ sở khoa học:
c) Tác dụng đối với tuần hoàn não. Trên chó gây mê, dùng máy đo lưu lượng điện từ trực tiếp đo lưu lượng tuần hoàn não, isoflavon toàn phần của sắn dây bằng đường tiêm động mạch cảnh với liều 0,1 - 5,0mg/kg làm lưu lượng máu qua não tăng 87,7 - 134%, nếu cho thuốc bằng đường tiêm tĩnh mạch flavon toàn phần với liều 10-30 mg/kg chỉ làm lưu lượng máu qua não tăng 20%. Trên bệnh nhân cao huyết áp, flavon toàn phần tiêm bắp thịt với liều 200 mg có 53% bệnh nhân tuần hoàn não được cải thiện, làm giảm trợ lực mạch máu não.
2. Tác dụng đối với hệ thần kinh: Dịch chiết sắn dây với liều 2 g/kg, cho thẳng vào dạ dày trên thỏ gây sốt bằng vaccin thương hàn có tác dụng hạ nhiệt; bột sắn dây cũng có tác dụng tương tự.
Nước sắc sắn dây với liều 6 g/kg cho thẳng vào dạ dày trên chuột nhất trắng, có tác dụng cải thiện hiện tượng trí nhớ bị tổn thương do scopolamin gây nên.
3. Tác dụng đối với cơ trơn: Trong các dịch chiết bằng aceton, methanol và nước từ sắn dây có những dạng PA3, PA4 có tác dụng ức chế co bóp hồi tràng cô lập chuột lang như kiểu papaverin, còn những dạng PM1, PM3 lại có tác dụng gây co thắt. Daidzein đối với ruột non cô lập chuột nhắt trắng có tác dụng giải co thắt, tác dụng này bằng khoảng 1/3 tác dụng của papaverin.
4. Tác dụng hạ đường huyết, lipid huyết: Nước sắc sắn dây với liều 6 - 8 g/kg cho thẳng vào dạ dày trên thỏ bình thường có tác dụng hạ đường huyết, nhưng không thể đối kháng với hiện tượng đường huyết tăng cao do adrenalin gây nên. Puerarin với liều 250 - 500 mg/kg cho thẳng vào dạ dày trên chuột nhắt trắng thực nghiệm gây đường huyết tăng cao bằng alloxan, có tác dụng làm hạ đường huyết, liều càng lớn tác dụng càng mạnh. Liều 250 mg/kg là liều cận kề với liều thấp nhất có tác dụng, dùng liều này kết hợp với aspirin 50mg/kg thì tác dụng hạ đường huyết tương đương với liều cao của puerarin và có thể đối kháng với hiện tượng đường huyết tăng cao do adrenalin gây nên. Puerarin với liều 500 mg/kg hoặc dùng liều thấp phối hợp với aspirin 100 rag/kg dùng liên tục trong 9 ngày qua đường dạ dày, có tác dụng làm giảm cholesterol huyết thanh của chuột nhắt trắng thực nghiệm đã được dùng aỉloxan, aspirin dùng đơn độc không có tác dụng hạ đường huyết hay hạ lipid huyết.
5. Tác dụng chống ung thư: Dạng chiết cồn từ sắn dây với liều 10 g/kg trên động vật thí nghiệm có tác dụng ức chế nhất định sự phát triển của tế bào sarcom 180, u báng Ehrlich và tế bào ung thư phổi Lewis. Daidzein với nồng độ 14 ng/ml có tác dụng ức chế sự tăng trưởng của tế bào HL.60.
6. Các tác dụng khác: Puerarin 0,2% nhỏ vào mắt thỏ, dung địch puerarin 0,2 - 1,6% - 0,2 ml tiêm dưới da chuột lang theo dõi phản ứng của giác mạc và da cho thấy có tác dụng gây tê cục bộ. Thí nghiệm trên chuột hamster, cao sắn dây có tác dụng chống nghiện rượu (antidipsotropic); trên chuột cống trắng, daidzein có tác dụng hạ thấp hàm lượng rượu trong máu và rút ngắn thời gian ngủ do rượu gây nên. Đối với công năng gan trên chuột nhắt trắng gây nhiễm độc bằng CC14, isoflavon chiết từ cát căn với liều 250 mg/kg có tác dụng ức chế 30,7% hoạt độ của men GOT.
Dược động học. Dùng phương pháp đồng vị phóng xạ cho thấy daidzein sau khi uống 30 phút xuất hiện trong máu và đạt tới đỉnh điểm trong vòng 6-8 giờ.
Trong 24 giờ, có khoảng 65% thuốc được hấp thụ qua đường tiêu hóa.
Daidzein sau khi tiêm tĩnh mạch, nửa đời phân bố và nửa đời thải trừ là 13 phút và 42 phút. Thuốc phân bố nhiều nhất ở thận và gan, vừa ở huyết tương, phổi và tim, thấp ở cơ xương, lách, tinh hoàn và não. Daidzein tiêm tĩnh mạch có khoảng 70% bài tiết qua nước tiểu trong vòng 24 giờ trong khi đó chỉ có 17% tìm thấy trong phân. Dùng thuốc bằng đường miệng lượng thuốc bài tiết qua nước tiểu và phân tương đương như trên.
Puerarin sau khi tiêm tĩnh mạch phân bố rộng khắp trong cơ thể và thải trừ nhanh chóng. Lượng puerarin nhiều nhất tìm thấy ở thận, lượng vừa phải ở huyết tương, gan và lá lách, lượng thấp nhất ỏ não. Puerarin được hấp thụ nhanh chóng qua đường tiêu hóa nhưng không hoàn toàn. Sau khi dùng thuốc 24 giờ, có khoảng 40% được tìm thấy trong đường tiêu hóa và phân. Puerarin bền vững trong đường tiêu hóa, nhưng bị chuyển hóa trong máu, gan, phổi và thận.
Độc tính. Sắn dây có độc tính rất thấp, không có tác dụng gây đột biến. Puerarin thí nghiệm trên chuột nhắt trắng bằng đường tiêm tĩnh mạch có LD50 = 738mg/kg thể trọng.
Ở Việt Nam, theo Phạm Duy Mai và cộng sự, cao sắn dây dùng bằng đường uống với liều 5 g/kg trên thỏ gây sốt thực nghiệm bằng pyrogen chuẩn, có tác dụng hạ sốt rõ rệt. về tác dụng giảm đau trên chuột nhắt trắng gây quặn đau bằng cách tiêm phúc mạc acid acetic 0,6%, sắn dây bằng đường uống với liều 5g và 10 g/kg đều có tác dụng giảm đau.
CÔNG DỤNGTính vị, công năng
Rễ sắn dây có vị ngọt, cay, tính bình, vào 2 kinh tỳ và vị, có tác dụng giải cơ, thoái nhiệt, sinh tân, chỉ khát, thoái chẩn, thăng dương, chỉ tả.
Hoa sắn dây có vị ngọt, tính bình, có tác dụng giải độc rượu.
Công dụng
Trong y học cổ truyền, sắn dây dùng chữa các bệnh cảm sốt phong nhiệt, cổ gáy cứng đau, sởi mọc không đều, viêm ruột, kiết lỵ kèm theo sốt khát nước.
Lá sắn dây vò với nước gạn uống chữa ngộ độc nấm. Lá già giã nát với lá tía tô thêm nước gạn uống bã đắp chữa rắn cắn.
Hoa sắn dây với liều 4 – 10g sắc nước uống chữa say rượu, tiêu chảy ra máu, trĩ.
Bột sắn dây được dùng để pha với nước có đường uống về mùa hè, có tác dụng giải nhiệt, làm mát cơ thể. Ngoài ra, nó còn được dùng làm chất dính trong bào chế thuốc. Trong y học hiện đại, gần đây ở Trung Quốc người ta dùng sắn dây chữa bệnh mạch vành, các cơn đau thắt ngực dưới dạng viên, mỗi viên chứa 10 mg isoflavon toàn phần, mỗi lần uống 1-3 viên, ngày 3 - 4 lần. Thuốc đã được dùng điều trị cho 71 bệnh nhân quan sát trong 4-8 tuần lễ, kết quà đạt 68,9%. Trong điều trị tai bị điếc đột ngột, người ta đã dùng dạng chiết cồn từ sắn dây và bào chế dưới dạng viên, mỗi viên tương đương l,5g dược liệu, ngày uống 3 lần mỗi lần uống 1-3 viên, sắn dây còn chữa bệnh cao huyết áp với liều dùng 10 - 15g, sắc nước uống.
Các bài thuốc đông y
1. Chữa cổ cứng, miệng khát, không có mồ hôi, sợ gió (Cát căn thang, trong Thương hàn luận):
Cát căn 12g, ma hoàng 9g, quế chi 6g (bỏ vỏ), sinh khương 9g (cắt lát), cam thảo 6g (chích), thược dược 6g, đại táo 12 quả. sắc với 1000 ml nước còn 300 ml, chắt nước bỏ bã, chia làm 3 lần uống trong ngày.
2. Chữa sởi mọc không đều ở trẻ em:
Cát căn 5 – l0g; thăng ma, cam thảo mỗi thứ l0g; ngưu bàng tử l0g. Sắc nước uống.
3. Chữa viêm ruột, viêm dạ dày, lỵ kèm theo sốt:
Cát căn, hoàng cầm, hoàng liên, cam thảo đều chế thành cao rồi dập viên 0,632g, mỗi viên tương đương với 2g dược liệu. Mỗi lần uống 3-4 viên, ngày uống 3 lần.
4. Viền Bạch địa căn dùng làm thuốc hạ sốt giảm đau:
Mỗi viên gồm 0,12g cát căn, 0,10g bạch chỉ, 0,03g địa liền. Uống mỗi lần 2 - 3 viên, mỗi ngày dùng 2-3 lần.
Trong y học hiện đại
Sản phẩm NÃO ĐẮC SINH CERINPAS của Công ty Cổ phần Dược phẩm OPC với các thành phần dược liệu có công dụng hoạt huyết hóa ứ, thông kinh hoạt lạc như: Cát căn, Tam thất, Hồng hoa, Xuyên khung và Sơn tra. Sự phối hợp tác dụng của các dược liệu trên, kêt hợp với phương pháp bào chế hiện đại, được kiểm sóat chất lượng chặt chẽ, cho ra chế phẩm điều trị các triệu chứng của tai biến mạch máu não hiệu quả, an tòan, dạng viên nang cứng tiện dụng.
Thuốc được chỉ định trong điều trị Các triệu chứng của tai biến mạch máu não (trúng phong) do ứ huyết gây tắc nghẽn kinh lạc như chóng mặt, hoa mắt, cơ thể khó cử động, khó phát âm ngôn ngữ. Xơ cứng động mạch não, tai biến mạch máu não do thiếu máu hoặc di chứng sau xuất huyết não với các triệu chứng trên.
Sản phẩm NÃO ĐẮC SINH CERINPAS
TIÊU CHUẨN
Đạt tiêu chuẩn theo Dược điển Việt Nam IV.
Mô tả
Rễ củ đã cạo lớp bần bên ngoài, hình trụ, hoặc hình bán trụ, dài 12 cm đến 15 cm, đường kính 4 cm đến 8 cm, có khi là những lát cắt dọc hoặc vát, dày, có kích thước khác nhau. Mặt ngoài màu trắng hơi vàng, đôi khi còn sót lại ở các đường rãnh dọc một ít lớp bần màu nâu. Chất cứng, nặng và nhiều bột. Mặt cắt ngang có nhiều sợi tạo thành những vòng đồng tâm màu nâu nhạt; mặt cắt dọc có nhiều vân dọc do các sợi tạo nên. Mùi thơm nhẹ, vị hơi ngọt, mát.
Vi phẫu
Cắt ngang rễ đôi khi thấy lớp bần còn sót lại từng mảng màu nâu, gồm nhiều tế bào hình chữ nhật. Mô mềm vỏ gồm những tế bào hình nhiều cạnh không đều, màng mỏng. Trong mô mềm vỏ có libe-gỗ cấp 3 xếp thành một vòng đồng tâm hoặc thành từng vòng nhỏ. Libe cấp 2 hình nón, trong có nhiều đám sợi. Tầng sinh libe-gỗ thành vòng liên tục, gồm nhiều tế bào dẹt, có màng mỏng. Gỗ cấp 2 ít phát triển, rải rác có mạch gỗ với lớp mỏng mô mềm gỗ và những đám sợi nhỏ. Tia ruột khá rộng, loe ra ở phần mô mềm vỏ. Trong mô mềm vỏ còn chứa nhiều hạt tinh bột và rải rác có tinh thể calci oxalat hình khối.
Soi bột
Bột màu trắng hơi vàng, soi kính hiển vi thấy: Nhiều hạt tinh bột, hạt đơn hình chỏm cầu, hình gần tròn hoặc hình nhiều cạnh, đường kính 3 µm đến 37 µm, rốn hình chấm, hình khe nứt hoặc hình sao; hạt kép gồm 2 hạt đến 10 hạt. Sợi thường tụ lại thành bó, thành dày và hóa gỗ, xung quanh là các tế bào chứa tinh thể calci oxalat hình lăng trụ tạo thành các sợi tinh thể. Các tế bào chứa tinh thể calci oxalat này có thành dày, hóa gỗ. Ít khi nhìn thấy tế bào đá hình gần tròn hoặc hình nhiều cạnh, đường kính 38 µm đến 70 µm. Mạch khá rộng, có đường viền lõm vào, vết lõm hình 6 cạnh, hình elip được sắp xếp rất dày đặc.
Định tính
Phương pháp sắc ký lớp mỏng (Phụ lục 5.4).
Bản mỏng: Silica gel 60F254.
Dung môi khai triển: Cloroform - methanol - nước (7 : 2,5 : 0,25).
Dung dịch thử: Lấy 0,8 g bột thô dược liệu, thêm 20 ml methanol (TT), lắc đều, ngâm trong 2 giờ, lọc. Cô dịch lọc trên cách thủy đến cạn. Hòa cắn trong 1 mlethanol (TT) làm dung dịch thử.
Dung dịch đối chiếu: Hòa tan puerarin chuẩn trong methanol (TT) để có nồng độ khoảng 1 mg/ml.
Nếu không có chuẩn puerarin thì có thể dùng 0,8 g bột thô Sắn dây (mẫu chuẩn) chiết như dung dịch thử.
Cách tiến hành: Chấm riêng biệt lên bản mỏng 20 µl mỗi dung dịch thử và dung dịch đối chiếu, triển khai sắc ký đến khi dung môi đi được khoảng 12 cm đến 14 cm, lấy bản mỏng ra, để khô ở nhiệt độ phòng, soi bản mỏng dưới đèn tử ngoại ở bước sóng 254 nm hoặc 366 nm.
Trên sắc ký đồ của dung dịch thử xuất hiện một số vết, trong đó phải có một vết chính có cùng màu sắc và giá trị Rf với vết puerarin của dung dịch đối chiếu. Nếu dùng bột Sắn dây chuẩn để chuẩn bị dung dịch đối chiếu thì trên sắc ký đồ của dung dịch thử phải có các vết cùng màu và giá trị Rf với các vết trên sắc ký đồ của dung dịch đối chiếu.
Tro toàn phần
Không quá 5,0 % (Phụ lục 9.8).
Tạp chất
Không quá 0,5 % (Phụ lục 12.11).
Độ ẩm
Không quá 14,0 % (Phụ lục 9.6, 1 g, 100 °C đến 105 °C, đến khối lượng không đổi).
20/09/2018
Dây leo to, dài 5-7m, có thể hơn. Thân cành màu xám nâu, có nốt sần, cành non hơi có cạnh. La mọc so le, hình trứng, dài 5-11cm, rộng 3-7cm, gốc thuôn hẹp, đầu có mũi nhon, mép khía răng nhỏ, mặt trên nhẵn màu lục sẫm, mặt dưới có lông ngắn ở gân những lá non, cuống lá dài 1.5-3cm....
04/09/2018
Cây thảo cao 40-50cm. Thân rễ hình cầu hay hình con quay, nạc, màu trắng. Lá có cuống dài, bè to mọc ốp vào nhau và xòe ra như hình hoa thị, phiến lá hình trái xoan hay hình trứng, mép nguyên lượn sóng, gân lá 5-7 hình cung....
24/08/2018
Loại Quế này mọc và trồng nhiều tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, ta cũng có loại quế này thuộc loại Quế tốt thứ hai trên thế giới sau loại quế quan của Sri Lanka. ...
17/08/2018
Liên kiều hình trứng, dài 1,6 – 2,3 cm, đường kính 0,6 – 1 cm. Đầu đỉnh nhọn, đáy quả có cuống nhỏ hoặc đã rụng. Mặt ngoài có vân nhãn dọc không nhất định và có nhiều đốm nhỏ nối lên. Hai mặt đều có 1 đường rãnh dọc rõ rệt....
10/08/2018
Cây thảo, sống lâu năm, cao 40-80cm. Thân rễ nạc, mọc bò ngang, phân nhiều nhánh. Lá mọc so le thành hai dãy, hình mác thuôn, thắt lại ở gốc, đầu nhọn, dài 15-20cm, rộng 2cm, không cuống, có bẹ nhẵn, lưỡi bẹ nhỏ dạng màng, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt. ...
06/08/2018
Cây nhỡ hay cây to, cao 10 – 15 m hoặc cao hơn, thường xanh. Vỏ cây màu xám, khi bẻ đôi sẽ thấy sợi nhựa trắng mảnh như tơ giữa các mảnh vỏ đó. Lá mọc so le, hình trứng rộng, mép khía răng, dài 6 – 13 cm, rộng 3,5 – 6,5 cm, mặt trên xanh lụ sẫm, mặt dưới nhạt hơn, khi đứt lá làm 2 – 3 mảnh cũng thấy sợi nhựa trắng như ở vỏ cây....
30/07/2018
Bình vôi thuộc loại cây dây leo, dài từ 2-6m. Lá mọc so le: phiến lá hình bầu dục, hoặc hình tim hoặc hơi tròn. Hoa tự tán nhỏ, tính khác gốc, màu vàng cam. Quả hình cầu, khi chín có màu đỏ tươi trong chứa 1 hạt hình móng ngựa có gai....
23/07/2018
Xích thược cũng như một vài loài khác cùng chi với bạch thược, mẫu đơn… có nguồn gốc ở vùng Đông Á, gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Đó là những cây cảnh quý, rể củ được dùng làm thuốc....
17/07/2018
Quýt là cây nhỡ, lá đơn so le, nguyên hoặc hơi khía tai bèo, hình trái xoan; cuống lá ngắn, hơi có cánh. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá; lá bắc nhỏ, hình vảy; đài hoa có 5 cánh hình trái xoan, có mũi nhọn, gần dính nhau; tràng có 5 cánh thuôn dày; nhị nhiều dài bằng cánh hoa, dính nhau một phần ở phía dưới, bầu hình cầu. Quả hình cầu dẹt, khi chín màu vàng cam sẫm, vỏ quả lồi lõm nhưng không sần sùi, cơm quả ngọt, chua và thơm....
09/07/2018
Tam thất có nguồn gốc ở phía nam Trung Quốc, được trồng từ lâu đời và không còn tìm thấy trong trạng thái mọc tự nhiên (Viện Nghiên cứu thực vật Vân Nam, 1975; Thực vật phân loại học báo, Vol 13, N°2: 29-48). Loài “Tam thất” trồng chủ yếu ở Trung Quốc hiện nay là Panax notoginseng. Cây được trồng nhiều nhất ở tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, sau đến Quảng Tây, và một số nơi khác Đài Loan, Nhật Bản và Triều Tiên....
06/07/2018
Cây leo bằng thân quấn, cành non có lớp lông bao phủ gồm lông đơn ngắn và lông tuyến có cuống, màu hơi đỏ có vân. Lá mọc đối, hơi dày, hình mũi mác - trái xoan, dài 4-7 cm, rộng 2-4 cm, gốc tròn, đầu nhọn, nhăn trừ mặt dưới trên các gân, cuống lá dài 5-6 mm....
05/07/2018
Cây Cát cánh mọc nhiều ở các tỉnh An Huy, Giang Tô và Sơn Đông của Trung Quốc. Cây trồng bằng hạt đang được di thực vào nước ta. Sau khi đào rễ về rửa sạch, bỏ tua rễ, bỏ vỏ ngoài hoặc không bỏ vỏ phơi khô, tẩm nước cắt lát dùng. Chích Cát cánh là Cát cánh chế mật sao vàng....
28/06/2018
Chủ yếu ở Đông và Đông Nam châu Á. Cây mọc hoang ở rừng núi ở độ cao khoảng 100-600m, ở nước ta có nhiều nhất ở các tỉnh Hà Bắc, Thanh hóa, Nghệ Tĩnh và Quảng Ninh. Hiện nay cây được nhiều nơi nuôi trồng để lấy củ....
24/02/2018
Tang ký sinh có vùng phân bố tự nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào nơi có trồng cây dâu tằm. Song, hiện nay chưa có những nghiên cứu cụ thể để chứng minh loài này còn ký sinh trên những loài cây chủ nào khác. Trên thế giới Tang ký sinh cũng được đề cập đến ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin.... ...
20/02/2018
Độc hoạt xuất xứ từ Trung Quốc, được trồng nhiều ở Triết Giang, Hồ Bắc, Hồ Nam. Cây được nhập vào Việt Nam đầu những năm 70 và được trồng ở Sa Pa (Lào Cai), sau đó được đưa ra sản xuất ở huyện Sìn Hồ (Lai Châu)....
07/02/2018
Dây leo bằng thân quấn, sống lâu năm. Thân mềm, nhẵn, mọc xoắn vào nhau. Rễ phình thành củ, màu nâu đỏ, củ nguyên có hình giống củ khoai lang....
28/01/2018
Viễn chí là rễ phơi khô của một số loài thuộc chi Polygala. Dược điển Việt Nam in lần thứ nhất và Dược điển Trung Quốc quy định hai loài: Viễn chí lá nhỏ - Polygala tenuifolia Willd. hoặc viễn chí Sibêri -Polygala sibirica L. , Dược điển nhiều nước khác thì qui định loài Polygala senega L., họ Viễn chí - Polygalaceae....
24/01/2018
Cây Tô mộc là một cây cao 7-10 m, thân có gai, lá kép lông chim, gồm 12 đôi hay hơn 12 đôi lá chét, hơi dẹp ở phía dưới, tròn ở đầu, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Hoa 5 cánh màu vàng mọc thành chùm, nhị hơi lòi ra, nửa dưới chỉ nhị hơi có lông, bầu hoa phủ lông xám. Quả là một giáp dẹt hình trứng ngược dày, dai, cứng, dài từ 7-10 cm, rộng từ 3,5-4 cm, trong có 3-4 hạt màu nâu....
15/01/2018
Thiên niên kiện là một cây sống lâu năm, có thân rễ mập, màu xanh, đường kính 1-2 cm. Lá mọc so le, có cuống dài từ 18 đến 25 cm, màu xanh, mềm, nhẵn, phía dưới cuống nở rộng thành bẹ có màu vàng nhạt; phiến lá hình đầu mũi tên, dài 11-15 cm, rộng 7-11 cm, đầu nhọn, phía dưới hình cánh tên, mép nguyên, mặt trên lá có màu đậm hơn, hai mặt đều nhẵn, gân ở hai mép đều hướng về phía đỉnh lá. Cụm hoa mẫn nở vào tháng 3-4. Quả mọng....
29/12/2017
Cây sơn thù du cho vị thuốc gọi là sơn thù hay sơn thù du (Fructus Corni) là quả khô của cây sơn thù. Quả, thu hái lúc vỏ ngoài chuyển sang màu đỏ, nhúng vào nước sôi ít phút, lấy thịt bỏ hạt, rồi làm khô....
01/12/2017
Ngô thù du là một cây nhỏ cao chừng 2,5-5m. Cành màu nâu hay tím nâu, khi còn non có mang lông mềm dài, khi già lông rụng đi, trên mặt cành có nhiều bì khổng. Lá mọc đối, kép lông chim, rìa lẻ. Cả cuống và lá dài độ 15-35cm, 2 đến 5 đôi lá chét, có cuống ngắn. Trên lá và cuống lá chét có mang lông mềm....
30/11/2017
Hoàng cầm là một loại cỏ sống dai, cao 20- 50cm, có rễ phình to thành hình chùy, mặt ngoài màu vàng sẫm bẻ ra có màu vàng. Thân mọc đứng, vuông, phân nhánh, nhẵn hoặc có lông ngắn. Lá mọc đối, cuống rất ngắn, hoặc không cuống; phiến lá hình mác hẹp, hơi đầu tù, mép nguyên, dài 1,5-4cm, rộng 3-8mm hoặc 1cm, mặt trên màu xanh sẫm, mặt dưới xanh nhạt. Hoa mọc thành bông ở đầu cành, màu lam tím. Cánh hoa gồm 2 môi, 4 nhị (2 nhị lớn dài hơn tràng) màu vàng, bầu có 4 ngăn....
27/11/2017
Đương quy là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao chừng 40-80cm, thân màu tím có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2-3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3-12cm, 3 đôi lá chét; đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ 1-2 lần nữa, mép có răng cưa; phía dưới cuống phát triển dài gần 1/2 cuống, ôm lấy thân. Hoa nhỏ màu xanh trắng hợp thành cụm hoa hình tán kép gồm 12-40 hoa. Quả bế có rìa màu tím nhạt. Ra hoa vào tháng 7-8....
27/10/2017
Cây thảo, sống lâu năm, cao 30-80cm. Rễ mảnh có đường kính 0,5-2cm, phân nhánh nhiều, màu đỏ nâu. Thân hình trụ, có 4 cạnh và lông mềm. Lá mọc đối, kép lông chim lẻ, 3-5 lá chét, đôi khi 7, hình trứng hoặc trái xoan, dài 2-7cm, rộng 0,8-5cm, gốc tròn, đầu nhọn, mép có răng cưa tròn, hai mặt phủ lông trắng mềm, dày hơn ở mặt dưới, gân lá chằng chịt thành mạng lưới, làm phiến lá như bị rộp lên, lá chét tận cùng lớn hơn, cuống lá dài....
25/10/2017
Loài của lục địa châu Á, phân bố từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, các nước Đông Dương. Ở nước ta, Diếp cá mọc hoang ở chỗ ẩm ướt. Thường được trồng làm rau ăn. Thu hái cành lá quanh năm, thường dùng tươi. Có thể phơi hay sấy khô để dùng dần. ...
16/12/1900
Cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Có cả ở Trung Quốc( Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Đài Loan). Có thể thu hái quanh năm, thường đào vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước mưa phùn để dễ phơi sấy....