Tên khác: Thược dược, thảo thược dược, xuyên xích thược.
Tên khoa học: Radix Paeoniae rubrae
Họ: Hoàng liên (Ranunculaceae).
Bộ phận dùng: Là rễ phơi hay sấy khô của 2 loài:
Thược dược: Paeonia lactiflora Pall.
Xuyên xích thược: Paeonia veitchii Lynch. var. beresowskii Schiff.
MÔ TẢ CÂY
Cây thảo, sống lâu năm, cao 50 - 80 cm. Rễ củ mập, có vỏ ngoài màu nâu đỏ. Thân hình trụ nhẵn. Lá mọc so le, có cuống dài, chia nhiều thùy rất hẹp, mép nguyên, hai mặt nhẵn.
Hoa to mọc riêng lẽ ở kẽ lá và ngọn thân, màu đỏ, nhị vàng.
Mùa hoa: tháng 5 - 7; mùa quả: tháng 8 - 9.
Hình 1: Xích thược (Paeonia veitchii Lynch)
PHÂN BỐ
Xích thược cũng như một vài loài khác cùng chi với bạch thược, mẫu đơn… có nguồn gốc ở vùng Đông Á, gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên. Đó là những cây cảnh quý, rể củ được dùng làm thuốc.
Cây được trồng lâu đời ở Trung Quốc và Nhật Bản. Cuối thập kỷ 70, Viện Dược liệu nhập cây từ Trung Quốc về trồng ở Trại thuốc Sa Pa.
THU HOẠCH, SƠ CHẾ
Thu hái vào mùa xuân, thu. Đào lấy rễ, loại bỏ thân, rễ con, đất cát, phơi khô.
THÀNH PHẦN HÓA HỌC:
Rễ xích thược chứa thành phần chủ yếu là paeoniflorin.
Paeoniflorin
TÁC DỤNG DƯỢC LÝ
Paeoniflorin có tác dụng ức chế thần kinh, chống co thắt và chống viêm. Độc tính cấp của nó rất thấp. Paeoniflorin có hoạt tính an thần và kéo dài thời gian giấc ngủ gây bởi hexobarbital trên chuột cống trắng. Chất này ức chế triệu chứng quặn đau ở chuột nhắt trắng gây ra bởi tiêm phúc mạc acid acetic, và cũng có tác dụng hạ thân nhiệt và chống co giật yếu. Paeoniflorin có tác dụng chống viêm rõ rệt cũng có tác dụng dự phòng loét do stress ở chuột cống trắng. Paeoniflorin còn có tác dụng hạ huyết áp trên chuột lang, có thể do gây giãn mạch ngoại biên; gây giãn mạch vành và mạch chân sau của chó, cũng thấy tác dụng gây giãn và ức chế cử động và trương lực các cơ quan có cơ trơn như dạ dày hoặc tử cung chuột cống trắng. Ngoài ra, paeoniflorin còn ức chế sự kết tập tiểu cầu và có tác dụng ức chế trên plasminogen và plasmin.
CÔNG DỤNGTrong đông y
Tính vị, quy kinh: Toan, khổ, vi hàn. Vào kinh can, tỳ.
Công năng: Lương huyết, tán ứ, giảm đau.
Chủ trị: Ôn độc phát ban, ỉa máu, chảy máu cam, mắt đỏ sưng đau, can uất, sườn đau, kinh bế, hành kinh đau bụng, hòn cục trong bụng, sưng đau do sang chấn, nhọt độc sưng đau.
Cách dùng liều lượng: Ngày dùng 6 - 12 g, dạng thuốc sắc.
Kiêng kỵ: Không dùng phối hợp với Lê lô.
Trong cuộc sống
Bài thuốc có xích thược:
Trong y học hiện đại:
Sự kết hợp của ba tà khí “phong-gió, hàn-lạnh, thấp-ẩm thấp” gây nên chứng phong hàn thấp (Tý chứng). Khi phong, hàn, thấp xâm nhập vào da, kinh lạc, gân xương gây nên tắc nghẽn sự vận hành của khí huyết, sự tắc nghẽn này gây đau mỏi, tê dại, đau nhức hoặc sưng tại các khớp (biểu hiện của bệnh viêm khớp).
Dựa trên bài thuốc Quyên Tý Thang là bài thuốc cổ phương có tác dụng điều trị các chứng phong hàn thấp. Công ty Cổ phần dược phẩm OPC đã bào chế thành công chế phẩm Khu Phong Trừ Thấp NEUTOLIN với 8 vị thuốc dược liệu: Xích thược, Cam thảo, Đương quy, Hoàng kỳ, Khương hoạt, Khương hoàng, Phòng phong, Can khương. Bài thuốc vừa trị nguyên nhân gây bệnh vừa trị triệu chứng của chứng phong hàn thấp giúp điều trị thân thể đau nhức, gáy lưng co rút, cử động khó khăn, chân tay tê dại.
Hình 2. Sản phẩm Khu Phong Trừ Thấp NEUTOLIN
TIÊU CHUẨN
Đạt tiêu chuẩn theo Dược điển Việt Nam IV.
Mô tả
Dược liệu hình trụ hơi cong, dài 5 - 40 cm, đường kính 0,5 - 3 cm. Mặt ngoài màu nâu, thô, có vân nhăn và rãnh dọc, có vết của rễ con và lỗ vỏ nhô lên theo chiều ngang, đôi khi vỏ ngoài dễ bị tróc. Chất cứng và giòn, dễ bẻ gẫy, mặt bẻ màu trắng phấn hoặc hồng, vỏ hẹp, gỗ có vân xuyên tâm rõ, đôi khi có khe nứt. Mùi hơi thơm, vị hơi đắng, chua và chát.
Hình 3. Rễ phơi khô của cây Paeonia lactiflora Pall (trái) và Paeonia veitchii Lynch (phải)
Vi phẫu
Bần gồm vài hàng tế bào nâu. Tế bào mô mềm của vỏ dạng kéo dài ra theo hướng tiếp tuyến. Libe tương đối hẹp. Tầng phát sinh xếp thành một vòng. Tia gỗ tương đối hẹp, mạch gỗ xếp theo hướng xuyên tâm, kèm theo có các sợi gỗ. Các tế bào mô mềm chứa các cụm tinh thể calci oxalat và hạt tinh bột. Tia gỗ, mạch gỗ, sợi gỗ nằm trong mô gỗ không hoá gỗ.
Hình 4. Vi phẫu cắt ngang rễ cây Paeonia lactiflora Pall.
Bột
Hình 5. Bột rễ loài Paeonia lactiflora Pall.
Định tính
Thể hiện phép thử định tính của Xích thược.
Độ ẩm
Không quá 14,0% (Phụ lục 9.6, 1 g, 105 oC, 6 giờ).
Tro toàn phần
Không quá 6,5% (Phụ lục 9.8, dùng 1 g dược liệu, phương pháp 2).
Tro không tan trong acid
Không quá 0,5% (Phụ lục 9.7).
20/09/2018
Dây leo to, dài 5-7m, có thể hơn. Thân cành màu xám nâu, có nốt sần, cành non hơi có cạnh. La mọc so le, hình trứng, dài 5-11cm, rộng 3-7cm, gốc thuôn hẹp, đầu có mũi nhon, mép khía răng nhỏ, mặt trên nhẵn màu lục sẫm, mặt dưới có lông ngắn ở gân những lá non, cuống lá dài 1.5-3cm....
04/09/2018
Cây thảo cao 40-50cm. Thân rễ hình cầu hay hình con quay, nạc, màu trắng. Lá có cuống dài, bè to mọc ốp vào nhau và xòe ra như hình hoa thị, phiến lá hình trái xoan hay hình trứng, mép nguyên lượn sóng, gân lá 5-7 hình cung....
24/08/2018
Loại Quế này mọc và trồng nhiều tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam Trung Quốc, ta cũng có loại quế này thuộc loại Quế tốt thứ hai trên thế giới sau loại quế quan của Sri Lanka. ...
17/08/2018
Liên kiều hình trứng, dài 1,6 – 2,3 cm, đường kính 0,6 – 1 cm. Đầu đỉnh nhọn, đáy quả có cuống nhỏ hoặc đã rụng. Mặt ngoài có vân nhãn dọc không nhất định và có nhiều đốm nhỏ nối lên. Hai mặt đều có 1 đường rãnh dọc rõ rệt....
10/08/2018
Cây thảo, sống lâu năm, cao 40-80cm. Thân rễ nạc, mọc bò ngang, phân nhiều nhánh. Lá mọc so le thành hai dãy, hình mác thuôn, thắt lại ở gốc, đầu nhọn, dài 15-20cm, rộng 2cm, không cuống, có bẹ nhẵn, lưỡi bẹ nhỏ dạng màng, hai mặt nhẵn, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới nhạt. ...
06/08/2018
Cây nhỡ hay cây to, cao 10 – 15 m hoặc cao hơn, thường xanh. Vỏ cây màu xám, khi bẻ đôi sẽ thấy sợi nhựa trắng mảnh như tơ giữa các mảnh vỏ đó. Lá mọc so le, hình trứng rộng, mép khía răng, dài 6 – 13 cm, rộng 3,5 – 6,5 cm, mặt trên xanh lụ sẫm, mặt dưới nhạt hơn, khi đứt lá làm 2 – 3 mảnh cũng thấy sợi nhựa trắng như ở vỏ cây....
31/07/2018
Sắn dây vốn có nguồn gốc từ hoang dại, thường mọc ở ven rừng kín thường xanh ẩm hoặc theo hành lang ven suối; ở độ cao đến 2000 m. Cây có vùng phân bố rộng từ Đông Ân Độ đến Mianma, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia... ...
30/07/2018
Bình vôi thuộc loại cây dây leo, dài từ 2-6m. Lá mọc so le: phiến lá hình bầu dục, hoặc hình tim hoặc hơi tròn. Hoa tự tán nhỏ, tính khác gốc, màu vàng cam. Quả hình cầu, khi chín có màu đỏ tươi trong chứa 1 hạt hình móng ngựa có gai....
17/07/2018
Quýt là cây nhỡ, lá đơn so le, nguyên hoặc hơi khía tai bèo, hình trái xoan; cuống lá ngắn, hơi có cánh. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá; lá bắc nhỏ, hình vảy; đài hoa có 5 cánh hình trái xoan, có mũi nhọn, gần dính nhau; tràng có 5 cánh thuôn dày; nhị nhiều dài bằng cánh hoa, dính nhau một phần ở phía dưới, bầu hình cầu. Quả hình cầu dẹt, khi chín màu vàng cam sẫm, vỏ quả lồi lõm nhưng không sần sùi, cơm quả ngọt, chua và thơm....
09/07/2018
Tam thất có nguồn gốc ở phía nam Trung Quốc, được trồng từ lâu đời và không còn tìm thấy trong trạng thái mọc tự nhiên (Viện Nghiên cứu thực vật Vân Nam, 1975; Thực vật phân loại học báo, Vol 13, N°2: 29-48). Loài “Tam thất” trồng chủ yếu ở Trung Quốc hiện nay là Panax notoginseng. Cây được trồng nhiều nhất ở tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, sau đến Quảng Tây, và một số nơi khác Đài Loan, Nhật Bản và Triều Tiên....
06/07/2018
Cây leo bằng thân quấn, cành non có lớp lông bao phủ gồm lông đơn ngắn và lông tuyến có cuống, màu hơi đỏ có vân. Lá mọc đối, hơi dày, hình mũi mác - trái xoan, dài 4-7 cm, rộng 2-4 cm, gốc tròn, đầu nhọn, nhăn trừ mặt dưới trên các gân, cuống lá dài 5-6 mm....
05/07/2018
Cây Cát cánh mọc nhiều ở các tỉnh An Huy, Giang Tô và Sơn Đông của Trung Quốc. Cây trồng bằng hạt đang được di thực vào nước ta. Sau khi đào rễ về rửa sạch, bỏ tua rễ, bỏ vỏ ngoài hoặc không bỏ vỏ phơi khô, tẩm nước cắt lát dùng. Chích Cát cánh là Cát cánh chế mật sao vàng....
28/06/2018
Chủ yếu ở Đông và Đông Nam châu Á. Cây mọc hoang ở rừng núi ở độ cao khoảng 100-600m, ở nước ta có nhiều nhất ở các tỉnh Hà Bắc, Thanh hóa, Nghệ Tĩnh và Quảng Ninh. Hiện nay cây được nhiều nơi nuôi trồng để lấy củ....
24/02/2018
Tang ký sinh có vùng phân bố tự nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào nơi có trồng cây dâu tằm. Song, hiện nay chưa có những nghiên cứu cụ thể để chứng minh loài này còn ký sinh trên những loài cây chủ nào khác. Trên thế giới Tang ký sinh cũng được đề cập đến ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin.... ...
20/02/2018
Độc hoạt xuất xứ từ Trung Quốc, được trồng nhiều ở Triết Giang, Hồ Bắc, Hồ Nam. Cây được nhập vào Việt Nam đầu những năm 70 và được trồng ở Sa Pa (Lào Cai), sau đó được đưa ra sản xuất ở huyện Sìn Hồ (Lai Châu)....
07/02/2018
Dây leo bằng thân quấn, sống lâu năm. Thân mềm, nhẵn, mọc xoắn vào nhau. Rễ phình thành củ, màu nâu đỏ, củ nguyên có hình giống củ khoai lang....
28/01/2018
Viễn chí là rễ phơi khô của một số loài thuộc chi Polygala. Dược điển Việt Nam in lần thứ nhất và Dược điển Trung Quốc quy định hai loài: Viễn chí lá nhỏ - Polygala tenuifolia Willd. hoặc viễn chí Sibêri -Polygala sibirica L. , Dược điển nhiều nước khác thì qui định loài Polygala senega L., họ Viễn chí - Polygalaceae....
24/01/2018
Cây Tô mộc là một cây cao 7-10 m, thân có gai, lá kép lông chim, gồm 12 đôi hay hơn 12 đôi lá chét, hơi dẹp ở phía dưới, tròn ở đầu, mặt trên nhẵn, mặt dưới có lông. Hoa 5 cánh màu vàng mọc thành chùm, nhị hơi lòi ra, nửa dưới chỉ nhị hơi có lông, bầu hoa phủ lông xám. Quả là một giáp dẹt hình trứng ngược dày, dai, cứng, dài từ 7-10 cm, rộng từ 3,5-4 cm, trong có 3-4 hạt màu nâu....
15/01/2018
Thiên niên kiện là một cây sống lâu năm, có thân rễ mập, màu xanh, đường kính 1-2 cm. Lá mọc so le, có cuống dài từ 18 đến 25 cm, màu xanh, mềm, nhẵn, phía dưới cuống nở rộng thành bẹ có màu vàng nhạt; phiến lá hình đầu mũi tên, dài 11-15 cm, rộng 7-11 cm, đầu nhọn, phía dưới hình cánh tên, mép nguyên, mặt trên lá có màu đậm hơn, hai mặt đều nhẵn, gân ở hai mép đều hướng về phía đỉnh lá. Cụm hoa mẫn nở vào tháng 3-4. Quả mọng....
29/12/2017
Cây sơn thù du cho vị thuốc gọi là sơn thù hay sơn thù du (Fructus Corni) là quả khô của cây sơn thù. Quả, thu hái lúc vỏ ngoài chuyển sang màu đỏ, nhúng vào nước sôi ít phút, lấy thịt bỏ hạt, rồi làm khô....
01/12/2017
Ngô thù du là một cây nhỏ cao chừng 2,5-5m. Cành màu nâu hay tím nâu, khi còn non có mang lông mềm dài, khi già lông rụng đi, trên mặt cành có nhiều bì khổng. Lá mọc đối, kép lông chim, rìa lẻ. Cả cuống và lá dài độ 15-35cm, 2 đến 5 đôi lá chét, có cuống ngắn. Trên lá và cuống lá chét có mang lông mềm....
30/11/2017
Hoàng cầm là một loại cỏ sống dai, cao 20- 50cm, có rễ phình to thành hình chùy, mặt ngoài màu vàng sẫm bẻ ra có màu vàng. Thân mọc đứng, vuông, phân nhánh, nhẵn hoặc có lông ngắn. Lá mọc đối, cuống rất ngắn, hoặc không cuống; phiến lá hình mác hẹp, hơi đầu tù, mép nguyên, dài 1,5-4cm, rộng 3-8mm hoặc 1cm, mặt trên màu xanh sẫm, mặt dưới xanh nhạt. Hoa mọc thành bông ở đầu cành, màu lam tím. Cánh hoa gồm 2 môi, 4 nhị (2 nhị lớn dài hơn tràng) màu vàng, bầu có 4 ngăn....
27/11/2017
Đương quy là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao chừng 40-80cm, thân màu tím có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2-3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3-12cm, 3 đôi lá chét; đôi lá chét phía dưới có cuống dài, đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống; lá chét lại xẻ 1-2 lần nữa, mép có răng cưa; phía dưới cuống phát triển dài gần 1/2 cuống, ôm lấy thân. Hoa nhỏ màu xanh trắng hợp thành cụm hoa hình tán kép gồm 12-40 hoa. Quả bế có rìa màu tím nhạt. Ra hoa vào tháng 7-8....
27/10/2017
Cây thảo, sống lâu năm, cao 30-80cm. Rễ mảnh có đường kính 0,5-2cm, phân nhánh nhiều, màu đỏ nâu. Thân hình trụ, có 4 cạnh và lông mềm. Lá mọc đối, kép lông chim lẻ, 3-5 lá chét, đôi khi 7, hình trứng hoặc trái xoan, dài 2-7cm, rộng 0,8-5cm, gốc tròn, đầu nhọn, mép có răng cưa tròn, hai mặt phủ lông trắng mềm, dày hơn ở mặt dưới, gân lá chằng chịt thành mạng lưới, làm phiến lá như bị rộp lên, lá chét tận cùng lớn hơn, cuống lá dài....
25/10/2017
Loài của lục địa châu Á, phân bố từ Ấn Độ qua Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, các nước Đông Dương. Ở nước ta, Diếp cá mọc hoang ở chỗ ẩm ướt. Thường được trồng làm rau ăn. Thu hái cành lá quanh năm, thường dùng tươi. Có thể phơi hay sấy khô để dùng dần. ...
16/12/1900
Cây riềng mọc hoang và được trồng ở khắp nước ta để làm gia vị và làm thuốc. Có cả ở Trung Quốc( Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Đài Loan). Có thể thu hái quanh năm, thường đào vào mùa thu đông hoặc sang xuân trước mưa phùn để dễ phơi sấy....
16/03/2017
Cây mã tiền Strychnos nux - vomica có nhiều ở Ấn Độ, Sri lanka, Malaysia, Thái Lan, Bắc Australia, ở nước ta hiện nay mới thấy mọc hoang ở vùng rừng núi các tỉnh phía Nam. Các loài mã tiền khác được phân bố ở hầu khắp các tỉnh vùng núi nước ta: Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hòa Bình, Bắc Giang, Sơn La, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị… Đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, Tây Ninh, Đồng Nai, Long An, Kiên Giang. Riêng loài Strychnos cathayensis Mer. mới gặp ở tỉnh Quảng Ninh....
16/03/2017
Cây Hoàng kỳ: Cây sống lâu năm, cao 50-80 cm. Rễ dài hình trụ, mọc cắm sâu. Thân mọc thẳng đứng, trên có phân nhiều cành. Lá mọc so le, kép lông chim lẻ, gồm 6-13 lá chét hình trứng dài 5-23 mm, mặt dưới có nhiều lông trắng mịn. Cụm hoa mọc ở kẽ lá thành chùm, dài hơn lá; hoa màu vàng; đài hình ống ngắn, 5 răng không đều; tràng có cánh cờ thẳng hình trứng thuôn; nhị 2 bó; bầu có nhiều noãn. Quả đậu dẹt, to dần về phía đầu và có mũi nhọn ngắn, mặt ngoài có lông ngắn, 5-6 hạt hình thận, màu đen. Mùa hoa vào các tháng 6-7, mùa quả vào các tháng 8-9....